Ngày 19-6-2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp lần thứ 7 đã thông qua Luật Hôn nhân và Gia đình, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2015, thay thế Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có 9 chương, 133 điều, so với Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 ít hơn 04 chương, nhưng tăng lên 23 điều. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã có nhiều quy định mới, có những sửa đổi, bổ sung như: Tăng độ tuổi kết hôn của nam và nữ; không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính; cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; quy định chế độ tài sản của vợ chồng…, cụ thể như:
* Thứ nhất, về điều kiện kết hôn, Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định như sau:
Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; không bị mất năng lực hành vi dân sự; việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (Luật hiện hành), nam từ 20 trở lên, nữ từ 18 trở lên là đủ tuổi kết hôn. Theo quy định này thì nam đã bước sang 20, nữ đã bước sang 18 mà kết hôn là không vi phạm điều kiện về tuổi kết hôn. Tuy nhiên, với quy định điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, thì độ tuổi kết hôn của nam và nữ sẽ được nâng lên và được tính theo tuổi tròn, bắt buộc nam phải từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn.
* Thứ hai, về vấn đề mang thai hộ
Một điểm mới quan trọng của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 là quy định về vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.
Theo đó, điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được quy định tại Điều 95 của Luật như sau:
Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.
Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây: Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; vợ chồng đang không có con chung; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây: Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ; đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ; trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Như vậy, vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là quy định mới của Luật Hôn nhân Gia đình năm 2014, với quy định này đã phản ánh được thực trạng hiện nay, và đáp ứng với tình hình phát triển thực tế của các mối quan hệ trong hôn nhân và gia đình.
* Thứ ba, quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Việc thỏa thuận phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực trước khi kết hôn. Thỏa thuận này vẫn có thể được thay đổi sau khi kết hôn.
* Ngoài những nội dung trên, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cũng quy định thêm một số vấn đề:
– Áp dụng tập quán tốt đẹp về hôn nhân và gia đình: chỉ được áp dụng tập quán trong trường hợp pháp luật không có quy định và các bên không có thỏa thuận nhưng không được trái với những nguyên tắc, vi phạm các điều cấm tại Luật này.
– Tiếp tục không thừa nhận hôn nhân đồng tính.
– Quy định cụ thể cách giải quyết về con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng các bên khi nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Không tính thời gian chung sống như vợ chồng trước khi đăng ký kết hôn vào thời kỳ hôn nhân.
– Quy định về con do người vợ mang thai trong thời kỳ hôn nhân cũng được luật hóa. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi do người vợ mang thai trong thời kỳ hôn nhân.
– Nếu cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định (Điều này được ghi nhận tại Nghị định 70/2001/NĐ-CP của Chính phủ).