Một số vấn đề pháp lý về thủ tục khởi kiện vụ án dân sự

Theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, muốn khởi kiện một người ra tòa, người khởi kiện (nguyên đơn) phải làm đơn kiện gửi tới tòa, kèm theo các tài liệu chứng minh cho nội dung khởi kiện. Ví dụ, kiện đòi nợ thì kèm theo đơn phải là giấy biên nhận tiền, thanh toán nợ, lãi…
Tòa án có thẩm quyền thụ lý là TAND quận, huyện nơi cư trú của người bị kiện, hoặc TAND tỉnh, thành phố (nếu có yếu tố nước ngoài). Sau khi xem xét đơn khởi kiện, tòa án báo cho nguyên đơn nộp tạm ứng án phí và thụ lý vụ kiện. Thời hạn đưa vụ kiện ra xét xử tối đa là 6 tháng kể từ ngày thụ lý đơn khởi kiện.
1. Điều kiện khởi kiện
1.1. Quyền khởi kiện
Nhóm thứ nhất là khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích của chính mình, được quy định tại Điều 163 Bộ luật tố tụng Dân sự, theo đó khi cá nhân, cơ quan, tổ chức nhận thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì có quyền khởi kiện để bảo vệ.
Nhóm thứ hai, là khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, được quy định tại Điều 164 Bộ luật tố tụng Dân sự, trong phạm vi bài viết này tác giả chỉ đề cập tới nhóm thứ nhất, không đề cập đến nhóm thứ hai.
Tóm lại, đối với Quyền khởi kiện thì điều cơ bản nhất người khởi kiện cần biết đó là khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể tự mình hoặc thông qua người khác để khởi kiện.
1.2 Năng lực hành vi tố tụng dân sự
Đối với cơ quan, tổ chức: Người đại diện theo pháp luật là người có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng, người đại diện theo pháp luật có thể ủy quyền cho người khác có đủ điều kiện để tham gia tố tụng.
Đối với cá nhân: Tùy vào độ tuổi và thể chất thì pháp luật chia ra các trường hợp sau:
Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người có đầy đủ năng lực lực hành vi tố tụng dân sự trừ những người bị mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc trường hợp khác do pháp luật quy định.

Người dưới 15 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự, thì việc bảo vệ quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của họ tại Tòa án do người đại diện theo pháp luật thực hiện.
Người tử đủ 15 tuổi – chưa đủ 18 tuổi, nếu đã tham gia hợp đồng lao động hoặc thực hiện các giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình thì có thể tự mình tham gia tố tụng và có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Những quan hệ khác thì việc bảo vệ quyền, nghĩa vụ của họ do người đại diện theo pháp luật thực hiện.
Trường hợp cá biệt: Đối với nữ giới từ 18 tuổi cho đến dưới 18 tuổi (từ 17 tuổi + 1 ngày – 17 tuổi 364 ngày) nếu đã kết hôn mà có yêu cầu ly hôn trong thời gian này thì có quyền tự mình tham gia tố tụng và có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng trong quan hệ hôn nhân.
1.3 Thủ tục tiền tố tụng
Đa số các tranh chấp trong vụ án dân sự thì không phải thực hiện thủ tục tiền tố tụng chỉ trừ một số ít quan hệ tranh chấp là phải thực hiện thủ tục tiền tố tụng.
Hai trường hợp cần thiết phải thực hiện thủ tục tố tụng:
Trường hợp 1: Tranh chấp chấp quyền sử đất.
Theo quy định, tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Tranh chấp đất đai phải thông qua hòa giải tại UBND cấp xã, vì vậy khi có tranh chấp đất đai, người khởi kiện cần phải thực hiện thủ tục hòa giải mới đủ điều kiện để khởi kiện.
Trường hợp 2: Tranh chấp lao động.
Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2012 thì tranh chấp về lao động phải thông qua thủ tục hòa giải cơ sở trước khi khởi kiện, trừ một số trường hợp được quy định tại thì không bắt buộc phải thông qua thủ tục hòa giải.
Một số lưu ý:
Theo quy định tại Điều 86 Luật Hôn nhân và gia đình thì điều kiện khởi kiện vụ án ly hôn không bắt buộc phải có thủ tục hòa giải cơ sở nhưng hiện này có rất nhiều Tòa án khi thụ lý vụ án ly hôn lại yêu cầu người kiện phải thực hiện việc hòa giải, trước khi khởi kiện. Vì vậy khi khởi kiện vụ án ly hôn thì người khởi kiện cần phải tìm hiểm thêm “lệ” của Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
Tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất như tranh chấp về hợp đồng tặng cho, chuyển nhượng, cho thuê…quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất (chỉ trừ trưởng hợp vợ chồng ly hôn mà có tranh chấp về quyền sử dụng đất) … thì trước đây (trước ngày 01/7/2013) tất cả phải hòa giải tại UBND cấp xã mới đủ điều kiện để khởi kiện. Tuy nhiên kể từ ngày 01/7/2013, ngày Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP có hiệu lực pháp luật thì những tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất không phải hòa giải tại UBND cấp xã vẫn đủ điều kiện khởi kiện.
2. Thời hiệu khởi kiện
2.1 Khái niệm
Để hiểu khái niệm về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thì trước hết cần phải biết về khái niệm thời hiệu.
Theo quy định tại Điều 154 Bộ luật Dân sự thì “Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc mất quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự”
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2.2 Thời hiệu và cách tính thời hiệu.
Thời hiệu đối với các vụ án dân sự có thể chia làm hai loại:
2.2.1 Áp dụng thời hiệu khởi kiện:
Đối với tranh chấp dân sự mà văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thời hiệu khởi kiện thì áp dụng thời hiệu khởi kiện được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật đó.( thường gồm các mốc: 01 năm; 02 năm; 03 năm; 10 năm ..)
Đối với tranh chấp về hợp đồng kinh doanh bảo hiểm thì theo quy định tại Điều 30 của Luật Kinh doanh bảo hiểm, thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là ba năm, kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp;
Đối với các tranh chấp lao động cá nhân thì theo quy định tại khoản 2 Điều 202 của Bộ luật lao động, thời hiệu khởi kiện về tranh chấp lao động cá nhân là 01 năm kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm
Đối với tranh chấp về chia di sản thừa kế, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác thì theo quy định tại Điều 645 của Bộ luật dân sự năm 2005 thì thời hiệu khởi kiện là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế…
2.2.2. Không áp dụng thời hiệu
– Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản là tranh chấp ai có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó;
– Tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu là tranh chấp về tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của mình nhưng do người khác quản lý, chiếm hữu tài sản đó;
– Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai là tranh chấp ai có quyền sử dụng đất đó.
– Tranh chấp về yêu cầu hoàn trả tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước;
– Tranh chấp về yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân bị xâm phạm;
2.2.3 Cách tính thời hiệu
+) Thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm.
–  Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định thời hạn thực hiện, nếu hết thời hạn đó mà bên có nghĩa vụ không thực hiện, thì ngày hết hạn thực hiện nghĩa vụ là ngày xảy ra xâm phạm;
–  Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên không thoả thuận hoặc pháp luật không quy định thời hạn thực hiện, nhưng theo quy định của pháp luật các bên có thể thực hiện nghĩa vụ hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo cho nhau biết trước trong một thời gian hợp lý, nếu hết thời hạn đã được thông báo đó bên có nghĩa vụ không thực hiện, thì ngày hết thời hạn đã được thông báo là ngày xảy ra xâm phạm;
–  Trường hợp khi hết hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự, các bên có thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ đó, thì việc xác định ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm căn cứ vào ngày chấm dứt thoả thuận của các bên và được thực hiện như hướng dẫn tại điểm a và điểm b khoản 5 Điều này;
–  Trong quá trình thực hiện hợp đồng mà có vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng, thì ngày vi phạm nghĩa vụ là ngày xảy ra xâm phạm, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Nếu một bên đơn phương đình chỉ hợp đồng thì ngày đơn phương đình chỉ hợp đồng là ngày bị xâm phạm.
–  Đối với trường hợp đòi bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tài sản, sức khoẻ, tính mạng,…, thì ngày xảy ra hành vi xâm phạm tài sản, sức khoẻ, tính mạng,… là ngày bị xâm phạm.
–  Trong một quan hệ pháp luật hoặc trong một giao dịch dân sự, nếu hành vi xâm phạm xảy ra ở nhiều thời điểm khác nhau, thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính kể từ thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm cuối cùng.
+) Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là khoảng thời gian phát sinh những sự kiện sau đây:
– Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ dân sự của mình;
– Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
– Chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lý do chính đáng khác mà không thể tiếp tục đại diện được trong trường hợp người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chết;
+) Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp sau đây:
–  Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;
–  Bên có nghĩa vụ thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;
–  Các bên đã tự hoà giải với nhau.
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện nêu trên.
3. Vụ án đã được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hay chưa?
Khi khởi kiện vụ án dân sự thì người khởi kiện cần phải xác định vụ án đó đã được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hay chưa, bởi lẽ, nếu cùng một quan hệ pháp luật tranh chấp, cùng chủ thể tham gia thì Tòa án sẽ không thụ lý những vụ án đã được giải quyết, trừ một số yêu cầu khởi kiện sau:
–         Yêu cầu ly hôn trước đây bị Tòa án bác yêu cầu, nay tiếp tục khởi kiện yêu cầu ly hôn;
–         Yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;
–         Yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng;
–         Yêu cầu thay đổi người quản lý di sản;
–         ….
4. Thẩm quyền giải quyết
Xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án trong tranh chấp dân sự cũng là một vấn đề hết sức cần thiết, để xác định chính xác thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì người khởi kiện cần phải nắm được những quy định sau:
4.1 Thẩm quyền chung:
Không phải mọi tranh chấp dân sự đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, mà Tòa án chỉ giải quyết những tranh chấp dân sự (dân sự thuần túy, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động …) được quy định tại các Điều 25; Điều 27; Điều 29 và Điều 31 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Lưu ý: Nếu như trước ngày 01/7/2014 thì những tranh chấp về quyền sử dụng đất mà một trong các bên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có các giấy tờ theo quy định tại khoản 1,2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 thì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tuy nhiên kể từ ngày 01/7/2014 trở về sau (kể từ thời điểm luật đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành) thì Tòa án có thêm thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất chưa có giấy chứng nhận và các giấy tờ thay thế khác, khi các đương sự có yêu cầu.
4.2 Thẩm quyền theo cấp
Khi xác định được vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì người khởi kiện cần xác định được thẩm quyền của Tòa án xét xử theo cấp là Tòa án cấp nào.
Hệ thống Tòa án nhân dân của Việt Nam gồm: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp tỉnh; Tòa án nhân dân cấp huyện.
Các tranh chấp dân sự được quy định tại các Điều 25; Điều 27; khoản 1 Điều 29; khoản 1, Điều 31 thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm. (Trừ trường hợp có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài.)
Các tranh chấp dân sự được quy định tại Khoản 2, Điều 29; khoản 2 Điều 31 và những tranh chấp tại Điều 25; Điều 27; khoản 1, Điều 29, khoản 1, Điều 31 có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh theo thủ tục sơ thẩm.
Lưu ý: Theo quy định tại Điều 7, Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP thì đương sự ở nước ngoài, tài sản ở nước ngoài, Cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, được hiểu như sau:
1. Đương sự ở nước ngoài bao gồm:
a) Đương sự là người nước ngoài không định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam có mặt hoặc không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;
b) Đương sự là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở nước ngoài có mặt hoặc không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;
c) Đương sự là người nước ngoài định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam nhưng không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;
d) Đương sự là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam nhưng không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;
đ) Cơ quan, tổ chức không phân biệt là cơ quan, tổ chức nước ngoài hay cơ quan, tổ chức Việt Nam mà không có trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự.
2. Tài sản ở nước ngoài
Tài sản ở nước ngoài là tài sản được xác định theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 ở ngoài biên giới lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự.
3. Cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
Cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài là trường hợp trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự cần phải tiến hành một hoặc một số hoạt động tố tụng dân sự ở nước ngoài mà Tòa án Việt Nam không thể thực hiện được, cần phải yêu cầu cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài thực hiện hoặc đề nghị Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
4.3 Thẩm quyền theo lãnh thổ:
Sau khi người khởi kiện xác định được thẩm quyền chung, thẩm quyền theo cấp thì người khởi kiện chỉ cần xác định thêm Tòa án theo lãnh thổ là người khởi kiện có thể xác định được chính xác Tòa án có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 35 thì thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự theo lãnh thổ được xác định như sau:
a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
b) Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;

c) Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản.
4.4. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
Ngoài những quy định về thẩm quyền như trên, thì Điều 36, Bộ luật Tố tụng Dân sự cũng quy định thêm trường hợp để người khởi kiện có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết trong một số trường hợp cụ thể:
a) Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết;
b,Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết;
c) Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam hoặc vụ án về tranh chấp việc cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết;
d) Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết;
đ, Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội, quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác đối với người lao động thì nguyên đơn là người lao động có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết;
e) Nếu tranh chấp phát sinh từ việc sử dụng lao động của người cai thầu hoặc người có vai trò trung gian thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi người sử dụng lao động là chủ chính cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi người cai thầu, người có vai trò trung gian cư trú, làm việc giải quyết;
g) Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết;
h) Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết;
i) Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các bất động sản giải quyết.
Lưu ý: Theo kinh nghiệm của tác giả, mặc dù Bộ luật Tố tụng Dân sự đã quy định rất rõ trường hợp nguyên đơn được quyền lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết trong trường hợp người lao động khởi kiện người sử dụng lao động về việc bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc sa thải thì người lao động có quyền khởi kiện tại nơi cư trú của mình, nơi làm việc hoặc nơi có trụ sở chi nhánh của doanh nghiệp mà NLĐ đã làm việc. Tuy nhiên, khi nhận đơn khởi kiện thì với tâm lý muốn ít việc, các Tòa thường hướng dẫn người lao động phải khởi kiện tại Tòa án nơi có trụ sở chính của doanh nghiệp, điều này gây rất nhiều khó khăn cho người lao động (vì có nhiều trường hợp địa chỉ trụ sở chính và chi nhánh rất xa nhau). Khi gặp những trường hợp này thì người lao động cần biết quy định tại điểm b, điểm đ Điều 36 để yêu cầu Tòa án nơi cư trú, nơi làm việc hoặc nơi có chi nhánh phải thụ lý, giải quyết để thuận lợi trong quá trình tham gia tố tụng.
5. Tạm ứng án phí và án phí
Khi quyết định khởi kiện một tranh chấp dân sự ra Tòa để giải quyết thì một điều người khởi kiện cần phải biết để có sự chuẩn bị trước đó là tiền tạm ứng án phí.
Hiện nay, những quy định về án phí, tạm ứng án phí được quy định tại Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 và được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn taij Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP, vì vậy khi khởi kiện thì người khởi kiện cần phải tìm hiểu ký nội dung của 02 văn bản trên để có kế hoạch về tài chính cho phù hợp.
Đặc biệt, người khởi kiện cần xem xét những trường hợp được miễn nộp toàn bộ tiền tạm ứng án phí, án phí được quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12.
Ngoài ra, nếu người khởi kiện không thuộc trường hợp được miễn nộp toàn bộ tiền tạm ứng án phí, nhưng hoàn cảnh kinh tế tại thời điểm khởi kiện có nhiều khó khăn thì có thể làm đơn yêu cầu được giảm một phần (tối đa không quá ½) tiền tạm ứng án phí, án phí.
Dưới đây là bảng mức án phí theo quy định:

Giá trị tài sản có tranh chấpMức án phí
a) từ 4.000.000 đồng trở xuống200.000 đồng
b) Từ trên 4.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng5% giá trị tài sản có tranh chấp
c) Từ trên 400.000.000 đồng đến 800.000.000 đồng20.000.000 đồng + 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng
d) Từ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 800.000.000 đồng
đ) Từ trên 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 2.000.000.000 đồng
e) Từ trên 4.000.000.000 đồng112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 4.000.000.000 đồng.

Lưu ý: Đối với người lao động khi khởi kiện đòi tiền lương, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, tiền bồi thường về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; giải quyết những vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; thì sẽ được miễn toàn bộ tiền tạm ứng án phí, án phí. Tuy nhiên đối với yêu cầu đòi tiền thưởng ( lương tháng 13 và thưởng theo doanh số) thì phải đóng tiền tạm ứng án phí và phải chịu án phí đối với những yêu cầu không được Tòa án chấp nhận, vì vậy khi khởi kiện để đòi khoản tiền thưởng thì NLĐ cần xem xét

kỷ về về căn cứ để khởi kiện, tránh trường hợp phải đóng tiền án phí đối với yêu cầu khởi kiện không có căn cứ.
6. Chuẩn bị Đơn khởi kiện và tài liệu kèm theo (hồ sơ khởi kiện).
Một nguyên tắc cơ bản trong Tố tụng Dân sự là: Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện. Vì vậy, muốn khởi kiện thì người khởi kiện phải có đơn khởi kiện để nêu lên yêu cầu khởi kiện của mình.
Hiện nay, mẫu đơn khởi kiện được ban hành theo mẫu số 01, Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP. Tuy nhiên để soạn thảo một đơn khởi kiện có đầy đủ nội dung và phù hợp với yêu cầu khởi kiện thì không phải bất kỳ ai cũng có thể soạn thảo, vì vậy khi cần soạn thảo đơn khởi kiện, người khởi kiện nên nhờ Luật sư hoặc những người có hiểu biết về pháp luật soạn thảo, nhằm đảm bảo tốt nhất quyền lợi của mình.
Khi nộp đơn khởi kiện, người khởi kiện cần phải nộp thêm những tài liệu đính kèm để chứng minh yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ vào hợp pháp:
Ví dụ 1: Khi nộp đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn thì người khởi kiện cần phải chuẩn bị tài liệu kèm theo gồm: Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn; CMND, sổ hộ khẩu của người khởi kiện; Giấy khai sinh của các con (nếu có tranh chấp về con); Giấy chứng nhận quyền sử dụng, quyền sở hữu các loại tài sản (nếu có tranh chấp về tài sản)…, các tài liệu khi cung cấp cho Tòa án cần phải là bản sao cho chứng thực của cơ quan có thẩm quyền.
Ví dụ 2: Khi nộp đơn khởi kiện về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì người lao động cần phải nộp những tài liệu kèm theo gồm:
Hợp đồng lao động; Thông báo chấm dứt HĐLĐ; Quyết định chấm dứt HĐLĐ hoặc các văn bản chứng minh việc người sử dụng lao động đã chấm dứt HĐLĐ; CMND và sổ hộ khẩu của người khởi kiện;…
Tuy nhiên, trong trường hợp vì những lý do khách quan mà tại thời điểm nộp đơn khởi kiện, người khởi kiện chưa cung cấp được những tài liệu kèm theo thì người khởi kiện có thể bổ sung theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án.
Lưu ý: Hiện nay có một số Tòa có thêm yêu cầu đối với người khởi kiện khi nộp đơn khởi kiện cần phải nộp kèm theo một số tài liệu sau:
1.      Giấy xác nhận nơi cư trú của bị đơn;
2.      Giấy xác nhận giá đất tại địa phương (theo giá nhà nước + giá thị trường);
3.      Bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp;
4.      …..
Theo quan điểm của tác giả thì những yêu cầu trên của Tòa án là không đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, tuy nhiên để thuận lợi trong quá trình giải quyết vụ án thì người khởi kiện cũng cần xem xét về khả năng cung cấp các tài liệu nêu trên cho Tòa án, nếu có khả năng thì người khởi kiện cần thu thập để cung cấp cho Tòa án theo yêu cầu.
7. Nộp đơn khởi kiện.
Sau khi hoàn tất giai đoạn chuẩn bị hồ sơ khởi kiện, công việc còn lại là nộp đơn khởi kiện. Theo quy định thì người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện theo hai hình thức: Nộp trực tiếp tại trụ sở Tòa án có thẩm quyền; Nộp qua đường bưu điện. Tuy nhiên, trên thực tế việc nộp đơn qua đương bưu điện ít được nhiều người sử dụng, bởi lẽ khi nhận được đơn khởi kiện qua đường bưu điện thì thời gian giải quyết của Tòa án tương đối lâu so với việc nộp trực tiếp, hoặc có thể bị thất lạc trong quá trình gửi.
Đa phần người khởi kiện chọn giải pháp nộp đơn trực tiếp tại Tòa án, khi nộp đơn khởi kiện trực tiếp tại Tòa án thì người khởi kiện cần lưu ý một số trường hợp:
–         Cán bộ nhận đơn thường yêu cầu bổ sung thêm những tài liệu không phù hợp với quy định của pháp luật:
Ví dụ: yêu cầu cung cấp biên bản hòa giải tại xã, phường, thị trấn đối với yêu cầu ly hôn hoặc tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Yêu cầu cung cấp biên bản hòa giải tại cơ sở đối với tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ…
–         Cán bộ nhận đơn “đẩy” sang một Tòa án khác.
Đây là trường hợp tương đối phổ biến, nhất là trong những vụ án tranh chấp về việc đơn phương chấm dứt HDLĐ mà người lao động làm việc tại chi nhánh có trụ sở ngoài địa bàn quận, huyện, tỉnh so với trụ sở chính. Theo quy định của pháp luật thì trong trường hợp này NLĐ có quyền lựa chọn Tòa án nơi có trụ sở chính của người sử dụng lao động; Tòa án nơi có địa chỉ chi nhánh; Tòa án nơi cư trú của NLĐ; Tòa án nơi NLĐ làm việc, tuy nhiên khi NLĐ chọn 01 trong 04 Tòa án trên thì các Tòa thường “đẩy” cho nhau.
Khi gặp những trường hợp này người nộp đơn cần phải yêu cầu người nhận đơn phải nhận đơn và có văn bản yêu cầu bổ sung, hoặc văn bản trả lại đơn khởi kiện nêu rõ những căn cứ pháp luật.
Ngoài ra, khi nộp đơn trực tiếp thì có nhiều Tòa án không cấp biên nhận đơn khởi kiện cho người nộp đơn, trong khi việc cấp biên nhận đơn (thông báo nhận đơn khởi kiện) là quy định bắt buộc theo quy định. Vì vậy khi nộp đơn người khởi kiện cần yêu cầu cán bộ nhận đơn cung cấp biên nhận, nhận đơn khởi kiện để làm cơ sở yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật

Tin Liên Quan